Suy niệm tĩnh tâm của Thượng Hội đồng: “Vẫn hy vọng mặc dầu không còn gì để hy vọng”

Vào sáng Chúa nhật, LM Timothy Peter Joseph Radcliffe, dòng Đa Minh và cựu Bề trên Dòng Giảng Thuyết, đã suy tư về ý nghĩa của “Vẫn hy vọng mặc dầu không còn gì để hy vọng” với những người sẽ tham gia Đại hội đồng Thượng Hội đồng Giám mục sẽ bắt đầu vào Thứ Tư, ngày 4 tháng 10.

 

Suy niệm 1

“Vẫn hy vọng mặc dầu không còn gì để hy vọng”

Ngày 1 tháng 10 năm 2023

 

Khi Đức Thánh Cha yêu cầu tôi tổ chức buổi tĩnh tâm này, tôi cảm thấy vô cùng vinh dự nhưng lại rất lo lắng. Tôi nhận thức sâu sắc về những hạn chế của cá nhân mình. Tôi già – da trắng – người Tây Phươg – và là đàn ông! Tôi không biết cái nào tệ hơn! Tất cả những khía cạnh này trong danh tính của tôi đều hạn chế sự hiểu biết của tôi. Vì vậy tôi xin quý vị tha thứ cho sự thiếu sót trong lời nói của tôi.

Tất cả chúng ta đều hoàn toàn không hoàn thiện và cần có nhau. Karl Barth, nhà thần học Tin Lành vĩ đại, đã viết về cái “cả/và” của Công giáo. Ví dụ, Kinh thánh truyền thống, đức tin việc làm. Người ta nói rằng ông đã gọi nó là cái “Và” Công giáo chết tiệt, “das verdammte katholische “Und”. Vì vậy, khi chúng ta lắng nghe nhau trong những tuần tới và không đồng ý, tôi cầu nguyện rằng chúng ta sẽ thường xuyên nói, “Có, và…..” thay vì “Không”! Đó là cung cách của Thượng hội đồng. Tất nhiên, nói Không đôi khi cũng cần thiết!

Trong bài đọc thứ hai trong Thánh Lễ hôm nay, Thánh Phaolô nói với các tín hữu Philipphê: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Philíp 2.2). Chúng ta tụ tập ở đây vì chúng ta không hiệp nhất trong trái tim và khối óc. Đại đa số những người tham gia vào tiến trình Thượng Hội đồng đều ngạc nhiên vì vui mừng. Đối với nhiều người, đây là lần đầu tiên Giáo hội mời họ nói về đức tin và niềm hy vọng của mình. Nhưng một số người trong chúng ta lo sợ về cuộc hành trình này và những gì ở phía trước. Một số người hy vọng rằng Giáo hội sẽ được thay đổi đáng kể, rằng chúng ta sẽ đưa ra những quyết định cấp tiến, chẳng hạn như về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Những người khác lại sợ những thay đổi tương tự như thế và sợ rằng chúng sẽ chỉ dẫn đến sự chia rẽ, thậm chí là ly giáo. Một số người không muốn ở đây chút nào. Một giám mục nói với tôi rằng ông đã cầu nguyện để không được chọn đến đây. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận! Quý vị có thể giống như người con trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc đầu không muốn đi vườn nho, nhưng rồi lại đi!

Vào những thời điểm quan trọng trong các Tin Mừng, chúng ta luôn nghe thấy những lời này: “Đừng sợ”. Thánh Gioan nói với chúng ta “Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”. Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc cầu nguyện để Chúa giải thoát tâm hồn chúng ta khỏi nỗi sợ hãi. Đối với một số người, đây là nỗi sợ thay đổi và đối với những người khác, đây là nỗi sợ rằng sẽ không có gì thay đổi. Nhưng “điều duy nhất chúng ta phải sợ chính là nỗi sợ hãi”. [1]

Tất nhiên, tất cả chúng ta đều có nỗi sợ hãi, nhưng Aquinô đã dạy chúng ta rằng lòng dũng cảm là từ chối làm nô lệ cho nỗi sợ hãi. Mong sao chúng ta luôn nhạy cảm trước những nỗi sợ hãi của những người khác, đặc biệt là những người mà chúng ta không đồng tình. Giống như Ábraham, chúng ta ra đi mà không biết mình sẽ đi đâu (Hípri 11.8). Nhưng nếu chúng ta giải phóng tâm hồn sợ hãi thì điều đó sẽ tuyệt vời ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

Để hướng dẫn chúng ta trong kỳ tĩnh tâm này, chúng ta sẽ suy niệm về Sự Biến Hình. Đây là nơi tĩnh tâm Chúa Giêsu dành cho các môn đệ thân cận nhất của Ngài trước khi họ bước vào Thượng Hội đồng đầu tiên trong đời sống Giáo hội, khi họ cùng nhau tiến về (syn-hodos) Giêrusalem. Cuộc rút lui này là cần thiết vì họ sợ cuộc hành trình mà họ phải thực hiện cùng nhau. Cho đến bây giờ họ vẫn lang thang khắp phía bắc Israel. Nhưng tại Sêdarê Philíp, Phêrô xưng nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Sau đó, Chúa Giêsu mời họ đi cùng Ngài lên Giêrusalem, nơi Ngài sẽ chịu đau khổ, chịu chết và sống lại từ cõi chết. Họ không thể chấp nhận điều này. Phêrô cố gắng ngăn cản Ngài. Chúa Giêsu gọi ông là “Sata’’, “kẻ thù”. Cộng đoàn nhỏ bị tê liệt. Thế là Chúa Giêsu đưa họ lên núi. Chúng ta hãy lắng nghe lời kể của Thánh Máccô về những gì đã xảy ra.

“Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Ngài đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Chúa Giêsu với các ông mà thôi” (9: 2-8).

Cuộc tĩnh tâm này mang lại cho họ lòng can đảm và niềm hy vọng để bắt đầu cuộc hành trình của mình. Cuộc hành trình đó không phải lúc nào cũng diễn ra tốt đẹp. Họ ngay lập tức thất bại trong việc giải thoát chú bé khỏi thần dữ. Họ cãi nhau xem ai là người vĩ đại nhất. Họ hiểu lầm Chúa. Nhưng họ đang trên đường đi với một niềm hy vọng mong manh.

Vì vậy, chúng ta cũng chuẩn bị cho Thượng Hội đồng của mình bằng cách đi tĩnh tâm, ở đó, giống như các môn đệ, chúng ta học cách lắng nghe Chúa. Khi chúng ta lên đường trong ba ngày, chúng ta thường giống như những môn đệ tử, hiểu lầm nhau và thậm chí cãi nhau. Nhưng Chúa sẽ dẫn chúng ta tiến tới cái chết và sự phục sinh của Giáo hội. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta niềm hy vọng: niềm hy vọng rằng Thượng Hội đồng này sẽ dẫn đến một cuộc đổi mới Giáo hội chứ không phải sự chia rẽ; niềm hy vọng rằng chúng ta sẽ xích lại gần nhau hơn như anh chị em. Đây là niềm hy vọng của chúng ta không chỉ đối với Giáo hội Công giáo mà còn đối với tất cả anh chị em đã được rửa tội. Người ta nói về một “mùa đông đại kết”. Chúng ta hy vọng một mùa xuân đại kết.

Chúng ta cũng tập hợp lại với niềm hy vọng cho nhân loại. Tương lai có vẻ nghiệt ngã. Thảm họa sinh thái đe dọa sự tàn phá ngôi nhà của chúng ta. Cháy rừng và lũ lụt đã tàn phá thế giới trong mùa hè này. Những hòn đảo nhỏ bắt đầu biến mất dưới đáy biển. Hàng triệu người đang trên đường chạy trốn khỏi nghèo đói và bạo lực. Hàng trăm người đã chết đuối ở Địa Trung Hải cách đây không xa. Nhiều bậc cha mẹ từ chối đưa con cái vào một thế giới có vẻ như đã bị diệt vong. Ở Trung Quốc, giới trẻ mặc áo phông có dòng chữ “Chúng tôi là thế hệ cuối cùng”. Chúng ta hãy tập hợp lại trong niềm hy vọng cho nhân loại, đặc biệt là hy vọng cho giới trẻ.

Tôi không biết chúng ta có bao nhiêu vị làm cha mẹ tại Thượng Hội đồng, nhưng cảm ơn quý vị đã trân trọng tương lai của chúng ta. Sau khoảng thời gian khó khăn ở Nam Sudan, trên biên giới với Congo, tôi bay trở lại Anh bên cạnh một đứa trẻ liên tục la hét suốt 8 tiếng đồng hồ. Tôi xấu hổ khi thú nhận rằng tôi đã có những suy nghĩ giết người! Nhưng còn có thừa tác vụ linh mục nào kỳ diệu hơn là nuôi dạy con cái và tìm cách mở rộng tâm trí chúng để đón nhận lời hứa về sự sống. Các cha mẹ và các giáo viên là những thừa tác viên của niềm hy vọng.

Vì vậy, chúng ta tập hợp lại trong niềm hy vọng cho Giáo hội và cho nhân loại. Nhưng khó khăn là đây: Chúng ta có những hy vọng trái ngược nhau! Vậy làm sao chúng ta có thể cùng nhau hy vọng? Về điểm này chúng ta cũng giống như các môn đệ. Mẹ của Giacôbê và Gioan hy vọng rằng họ sẽ ngồi bên tả hữu Chúa trong vinh quang và như thế sẽ thay thế Phêrô; có sự ganh đua ngay cả trong vòng bạn bè thân thiết nhất của Chúa Giêsu. Có lẽ Giuđa hy vọng có một cuộc nổi loạn để đánh đuổi quân La Mã. Một số người trong số họ có lẽ chỉ hy vọng không bị giết chết. Nhưng họ bước tiếp cùng nhau. Vậy chúng ta có thể có được niềm hy vọng chung nào ?

Trong Bữa Tiệc Ly, họ đã nhận được một niềm hy vọng vượt xa tất cả những gì họ có thể tưởng tượng: Mình và Máu Chúa Kitô, giao ước mới, sự sống đời đời. Dưới ánh sáng của niềm hy vọng Thánh Thể này, tất cả những niềm hy vọng xung đột của họ dường như chẳng là gì cả, ngoại trừ Giuđa là người tuyệt vọng. Đây là điều mà Thánh Phaolô gọi là “Vẫn hy vọng mặc dầu không còn gì để hy vọng” (Rm 4,18), niềm hy vọng vượt trên mọi hy vọng của chúng ta.

Chúng ta cũng tụ họp như các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, không phải như một phòng tranh luận chính trị để giành chiến thắng. Niềm hy vọng của chúng ta là Thánh Thể. Lần đầu tiên tôi thoáng thấy điều này có ý nghĩa gì ở Rwanda vào năm 1993, khi những rắc rối mới chỉ bắt đầu. Chúng tôi đã lên kế hoạch đi thăm các nữ tu Đa Minh ở phía bắc nhưng đại sứ Bỉ nói với chúng tôi rằng chúng tôi nên ở nhà. Đất nước đang bị cháy. Nhưng tôi còn trẻ và ngu ngốc. Bây giờ tôi đã già và ngu ngốc! Ngày hôm đó chúng tôi chứng kiến ​​những điều khủng khiếp: Một khu bệnh viện chứa đầy trẻ nhỏ bị cụt chân tay vì bom mìn. Một em bị mất cả hai chân, một tay và một mắt. Cha em ngồi cạnh em khóc. Tôi vào bụi cây khóc, cùng với hai đứa trẻ mỗi đứa nhảy bằng một chân.

Chúng tôi đến gặp các nữ tu của mình, nhưng tôi có thể nói gì đây ? Đối mặt với bạo lực vô nghĩa như vậy, không ai có thể nói nên lời. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa: “Hãy làm việc này mà nhớ đến ta.” Chúng ta được giao việc gì đó để làm. Tại Bữa Tiệc Ly, dường như không có tương lai. Tất cả những gì ở phía trước rõ ràng là thất bại, đau khổ và cái chết. Và trong thời điểm đen tối nhất này, Chúa Giêsu đã thực hiện một cử chỉ đầy hy vọng nhất trong lịch sử thế giới: “Đây là Mình Thầy, được trao ban vì các con. Đây là máu Thầy đổ ra vì các con”. Đây chính là niềm hy vọng mời gọi chúng ta vượt lên trên mọi chia rẽ.

Một trong những anh em tu sĩ của tôi ở miền đông Ukraine đã đến dâng thánh lễ cho một số nữ tu đang chuyển nhà. Mọi thứ đã được đóng gói. Tất cả những gì họ có thể đưa ra để làm đĩa đựng bánh thánh là một chiếc đĩa nhựa màu đỏ. Vị tu sĩ ấy viết: “Đây là cách Chúa cho chúng tôi thấy rằng Ngài ở cùng chúng tôi.” Bạn đang ngồi dưới tầng hầm, ẩm ướt và mốc meo, nhưng tôi ở bên bạn – trên một chiếc đĩa đỏ dành cho trẻ em, chứ không phải trên một đĩa vàng.” Đây là niềm hy vọng Thánh Thể của cuộc hành trình công nghị này. Chúa ở cùng chúng ta.

Niềm hy vọng của Bí tích Thánh Thể là những gì nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta/ Sách Khải Huyền: “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7: 9 tt). Đây là niềm hy vọng mà các môn đệ đã thoáng thấy trên núi nơi Chúa Biến Hình. Niềm hy vọng đó làm cho xung đột giữa những hy vọng của chúng ta trở nên nhỏ nhặt, gần như vô lý. Nếu chúng ta thực sự đang trên đường đến Nước Trời, việc bạn đứng về phía những người được gọi là theo chủ nghĩa truyền thống hay những người theo chủ nghĩa tiến bộ có thực sự quan trọng không? Ngay cả những khác biệt giữa các tu sĩ Đa Minh và Dòng Tên cũng trở nên không đáng kể! Vậy chúng ta hãy lắng nghe Ngài, hãy xuống núi và tiếp tục bước đi một cách tin tưởng. Những ân huệ lớn nhất sẽ đến từ những người mà chúng ta không đồng ý nếu chúng ta dám lắng nghe họ.

Trong hành trình Thượng Hội Đồng, chúng ta có thể lo lắng liệu chúng ta có đạt được điều gì không. Giới truyền thông có thể sẽ quyết định rằng tất cả chỉ là lãng phí thời gian, chỉ là lời nói. Họ sẽ tìm hiểu xem liệu những quyết định táo bạo có được đưa ra về khoảng bốn hoặc năm chủ đề nóng bỏng hay không. Nhưng các môn đệ trong Thượng hội đồng đầu tiên đi bộ đến Giêrusalem dường như không đạt được điều gì. Họ thậm chí còn cố gắng ngăn chặn việc chữa lành cho anh mù Batimê. Họ dường như vô dụng. Khi đám đông đói khát tụ tập quanh Chúa Giêsu, các môn đệ hỏi Chúa “Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” Chúa Giêsu hỏi họ có gì, chỉ có bảy chiếc bánh và vài con cá (Mc 8,1-10). Thế là quá đủ rồi. Nếu chúng ta quảng đại cống hiến bất cứ điều gì chúng ta có trong Thượng Hội đồng này, thế là quá đủ. Chủ mùa gặt sẽ cung cấp.

Bên cạnh tu viện của chúng tôi ở Baghdad là một ngôi nhà dành cho trẻ em bị bỏ rơi thuộc mọi tín ngưỡng, do các nữ tu của Mẹ Têrêsa điều hành. Tôi sẽ không bao giờ quên cô bé Nura, khoảng tám tuổi, sinh ra không có tay hoặc chân, đang cho những đứa trẻ nhỏ hơn ăn bằng chiếc thìa ngậm trong miệng của em. Người ta có thể tự hỏi mục đích của những hành động tốt đẹp nhỏ bé trong vùng chiến sự là gì. Những hành động đó có tạo ra sự thay đổi gì không? Không phải họ chỉ đắp thạch cao lên một cơ thể đang thối rữa sao? Chúng ta làm những việc tốt nhỏ bé và để Chủ mùa gặt ban cho những việc đó hoa trái như ý muốn. Hôm nay chúng ta tụ họp vào lễ Thánh Têrêsa thành Lisieux. Thánh nữ được sinh ra cách đây 150 năm. Chị thánh mời gọi chúng ta đi theo “con đường nhỏ” dẫn tới Nước Trời. Chị thánh nói, “Hãy nhớ rằng không có gì là nhỏ trong mắt Chúa.”

Ở Auschwitz, Primo Levi, một người Do Thái gốc Ý, được Lorenzo chia một phần bánh mì mỗi ngày. Anh ấy viết: “Tôi tin rằng thực sự là nhờ Lorenzo mà tôi mới sống được ngày hôm nay; và không phải vì sự giúp đỡ vật chất của anh ấy mà vì anh ấy đã liên tục nhắc nhở tôi bằng sự hiện diện của anh ấy, bằng cung cách tốt bụng cách tự nhiên và giản dị của anh ấy, rằng vẫn tồn tại một thế giới bên ngoài chúng ta, một điều gì đó và một ai đó vẫn trong sáng và trọn vẹn, không hư hỏng, không dã man…một điều gì đó khó định nghĩa, một khả năng tốt đẹp xa vời nhưng đáng để tiếp tục sống. Nhờ Lorenzo mà tôi đã không quên rằng bản thân tôi cũng là một con người. [2]  Phần bánh mì nhỏ bé đó đã cứu rỗi linh hồn anh ấy.

Những lời cuối cùng của Thánh David, vị thánh bảo trợ của xứ Wales, là: “Hãy làm tốt những việc đơn giản”. Chúng ta hy vọng rằng bất cứ hành động nhỏ nào chúng ta thực hiện trong Thượng Hội đồng này sẽ mang lại kết quả ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Vào đêm cuối cùng đó, Chúa Giêsu đã hiến thân cho các môn đệ: “Thầy hiến thân cho các con”. Trong Thượng Hội đồng này, chúng ta không chỉ chia sẻ lời nói và niềm xác tín của mình mà còn chia sẻ chính mình với lòng quảng đại Thánh Thể. Nếu chúng ta mở lòng với nhau, những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Các môn đệ thu thập tất cả những mảnh bánh và cá còn sót lại sau khi cho năm ngàn người ăn. Không có gì bị mất.

Một điểm cuối cùng. Phêrô cố gắng ngăn cản Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, vì điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với ông. Thật vô lý khi đến đó để bị giết. Tuyệt vọng không phải là bi quan. Đó là nỗi kinh hoàng khi không còn gì có ý nghĩa nữa. Và hy vọng không phải là sự lạc quan mà là niềm tin rằng tất cả những gì chúng ta đang sống, tất cả những bối rối và nỗi đau của chúng ta, bằng cách nào đó sẽ được coi là có ý nghĩa. Chúng ta tin tưởng vào điều đó, như Thánh Phaolô nói: “Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Côrintô 13:12).

Bạo lực vô nghĩa phá hủy mọi ý nghĩa và giết chết linh hồn chúng ta. Khi Thánh Oscar Romero, Tổng Giám mục San Salvador đến thăm hiện trường vụ thảm sát của quân đội Salvador, ông đã nhìn thấy xác một cậu bé nằm trong một con mương: “Cậu ấy chỉ là một đứa trẻ, ở dưới đáy mương, khuôn mặt hướng lên. Bạn có thể nhìn thấy những lỗ đạn, những vết bầm tím do những cú đánh để lại, máu khô. Đôi mắt cậu mở to, như thể hỏi nguyên nhân cái chết của anh ta và không hiểu [3] ”. Tuy nhiên, chính vào lúc này, cậu đã khám phá ra ý nghĩa cuộc đời mình và lời mời gọi từ bỏ cuộc đời đó. Vâng, cậu ấy đã sợ hãi đến cùng. Xác chết của cậu ướt đẫm mồ hôi khi cậu nhìn người đàn ông sắp giết mình. Nhưng cậu không còn là nô lệ của sự sợ hãi nữa.

Tôi hy vọng rằng tại Thượng Hội đồng này sẽ không có bạo lực! Nhưng thường thì có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi mục đích của tất cả những điều này là gì, nhưng nếu chúng ta lắng nghe Ngài và lắng nghe lẫn nhau, chúng ta sẽ hiểu được con đường phía trước. Đây là chứng tá Kitô giáo của chúng ta trong một thế giới thường mất niềm tin rằng sự tồn tại của con người có ý nghĩa gì đó. Macbeth của Shakespeare khẳng định rằng cuộc đời chỉ là một câu chuyện, “được kể bởi một kẻ ngốc, đầy âm thanh và giận dữ, chẳng có ý nghĩa gì.” [4] Nhưng qua việc cùng nhau suy nghĩ và cầu nguyện về những vấn đề lớn lao mà Giáo hội và thế giới phải đối mặt, chúng ta làm chứng cho niềm hy vọng của chúng ta nơi Chúa, Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của mỗi con người.

Mỗi trường học Kitô giáo là một bằng chứng cho niềm hy vọng của chúng ta vào “ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,5). Tại Baghdad, các tu sĩ Đa Minh đã thành lập một học viện với khẩu hiệu: “Ở đây không cấm đặt câu hỏi.” Giữa vùng chiến sự, một ngôi trường là minh chứng cho niềm hy vọng của chúng ta rằng bạo lực vô nghĩa sẽ không có tiếng nói cuối cùng. Homs ở Syria là một thành phố bị phá hủy phần lớn bởi bạo lực vô nghĩa. Nhưng ở đó, giữa đống đổ nát, chúng tôi phát hiện ra một trường học Công giáo. Tại đây, tu sĩ Dòng Tên người Hà Lan, Franz van der Lugt, đã từ chối rời đi bất chấp những lời đe dọa giết chết. Vị tu sĩ bị bắn khi đang ngồi trong vườn. Nhưng chúng tôi tìm thấy một tu sĩ Dòng Tên già người Ai Cập vẫn đang giảng dạy. Ông đang huấn luyện một thế hệ trẻ em khác tiếp tục cố gắng tìm hiểu cuộc sống của chúng. Đó là những gì hy vọng biểu lộ ra bên ngoài.

Vì vậy, thưa anh chị em, chúng ta có thể bị chia rẽ bởi những hy vọng khác nhau. Nhưng nếu chúng ta lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau, tìm hiểu ý muốn của Ngài đối với Giáo hội và thế giới, chúng ta sẽ hiệp nhất trong một niềm hy vọng vượt lên trên những bất đồng của chúng ta, và được chạm đến bởi người mà Thánh Augustinô gọi đó là “vẻ đẹp quá cổ xưa và mới mẻ…Con đã nếm được Chúa và bây giờ đói khát Chúa; Chúa đã chạm vào con, và con tiêu hao mong chờ sự bình an của Chúa.” [5] Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ xem coi chúng ta có thể bị chia rẽ một cách nào khác, theo cách chúng ta hiểu Giáo hội là kiểu gia đình nào.

 

[1] Franklin D. Roosevelt

[2] “Sống sót ở Auschwitz” Ấn bản 21 tháng 1 năm 2006

[3] Scott Wright Oscar Romero và Các Thánh thông công Orbis New York 2009 trang 37

[4] Macbeth, Màn 5, Cảnh 5

[5] Tự thú, quyển 7.27, bài đọc phụng vụ giờ kinh, Lễ kính Thánh Augustinô.

 

Phêrô Phạm Văn Trung chuyển ngữ.

(www.vaticannews.va)

Chia sẻ Bài này:

Related posts